Saturday, February 4, 2017

Nguồn gốc Karaoke, Karaoke ra đời ở đâu?

Karaoke là gì ?
Karaoke, còn gọi karaôkê hay karôkê, là một hình thức giải trí bằng cách hát theo lời dưới hình thức phụ đề và giai điệu âm nhạc do thiết bị Karaoke (hay dàn karaoke) cung cấp. Từ karaoke bắt nguồn từ sự kết hợp từ kara, có tức thị không (cũng như trong môn võ karate - từ kara có tức là  không) với từ oke (viết tắt của từ okesutora) và có nghĩa là dàn nhạc. Thay bằng việc có cả âm nhạc và xướng âm, các đĩa karaoke chỉ có âm nhạc thôi. Phần xướng âm dành cho người trình diễn trực tiếp (và không phải là chuyên nghiệp), người sẽ cầm microphone và hát theo văn bản bài hát trên màn hình.



Nguồn gốc lịch sử Karaoke
Vậy Nguồn gốc sự ra đời karaoke là ở đâu? cỗi nguồn của karaoke ở Nhật Bản không thể tách rời khỏi các quán bar chơi piano và guitar truyền thống vốn là địa điểm giải trí đẵn của các thương lái Nhật từ nhiều năm về trước. Trong các quán bar đó, khán giả có thể được mời hay tình nguyện hát với nhạc đệm của piano hay guitar. Đại đa số cho rằng karaoke đã bắt đầu tại thành thị Kobe của Nhật vào những năm 1970. Kobe là thành phố cảng vùng Kansai vốn đã mở cửa cho thương nghiệp quốc tế vào đầu năm 1868 thời kỳ Meiji. Như một cánh cổng mở cho Nhật Bản, Kobe nổi danh và vinh diệu là thành thị đứng đầu về thời trang; sự kiến tạo rất nhiều lĩnh vực kinh dinh và các sản phẩm lạ lùng như mì ăn liền, siêu thị, các nhà tắm hơi, các cửa bán vé tự động... Có một châm ngôn của người Nhật như sau: "xu hướng mới đến từ phía Tây Nhật Bản (có tức là Kansai) và thời trang thì đến từ Kobe". Và karaoke đã ra đời đằng sau một câu chuyện kể rằng ở một quán bar nọ tại thành phố Kobe, khi người ca sĩ vì lý do nào đó không thể có mặt để trình diễn, ông chủ  quán bar đã quyết định bật băng ghi nhạc và đề nghị mọi người hát. Và từ khởi nguồn đơn giản như thế, karaoke đã nhanh chóng trở thành phổ quát. Việc môi trường thiên nhiên bị hạn chế và việc tỉnh thành hoá ngày càng gia tăng  làm cho càng ngày càng ít không gian cần thiết cho những hoạt động ngơi nghỉ ngoài trời, và cố nhiên, lý do đó đã khuyến khích cho việc phát triển việc kinh dinh tiêu khiển trong nhà như bar, karaoke, sauna... Việc hạn chế không gian cũng như nhu cầu cách âm đã dẫn đến việc tạo ra các "hộp" karaoke, một dụng cụ bên hò có các phòng cách âm đóng kín cửa. Hộp karaoke trước hết xuất hiện vào năm 1984 trên cánh đồng lúa tại miền quê Okayama, phía tây Kansai. Nó được làm từ những toa xe chở hàng đã được cải tạo lại. Từ đó, các hộp karaoke được xây dựng trên những vùng đất trống khắp nơi trên sơn hà Nhật, và trong khu vực đô thị, những phòng karaoke chia ngăn và cách âm cũng được giới thiệu và lần lượt mọc lên.

cội nguồn lịch sử Karaoke
Sự phát triển của video âm nhạc như một hình thái kinh doanh mới phát triển của ngành công nghiệp âm nhạc mang phong cách dân gian đương đại là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của karaoke. Karaoke đích thực đã bùng phát từ Nhật Bản sau sự phát triển của công nghệ đĩa lazer (LD) và đĩa compact (CD + đồ hoạ), cho phép lời bài hát hiển thị trên màn hình TV trong khi âm nhạc nổi lên và xác định được ngay lập tức vị trí của từng bài hát. Vì quyền lợi của các công ty thu âm, việc thương nghiệp hoá ngành kinh doanh karaoke là trung gian tuyệt vời cho việc quảng cáo những bài hát nhạc Pop và các ngôi sao mới. Karaoke, trong tiến trình phát triển của mình, đã có những sự tiến hóa một mực. Từ những ngày đầu được ghi trên băng thu thanh, karaoke đã được chuyển sang dạng đĩa CD (compact disc), rút cục kết hợp với video, đồ họa cùng với văn bản bài hát trên màn hình nhằm nhắc cho những ai không nhớ lời bài hát. Một ngành công nghiệp toàn diện đã được mở ra xung quanh karaoke và các sản phẩm kỹ thuật đã được sử dụng để nâng cao việc biểu diễn. Những dàn máy ở nhà, các thư viện phần mềm hoàn thiện, các microphone cho khách, và những chiếc hộp để đựng chúng đều sẵn sàng cho người hát karaoke. Những hệ thống âm thanh hoàn thiện cho các kĩ sư và các công ty cao cấp ngày nay cũng dễ dàng tìm thấy. Các phòng thu đã mở cửa cho các cá nhân chủ nghĩa hát karaoke có nhu cầu thu âm. Các trang Web và các câu lạc bộ tình nhân thích trên toàn thế giới đã nối kết với nhau để làm cho thế hệ mới của các nhóm karaoke có thể giao thông, giao lưu với nhau. Các cuộc thi hát karaoke cũng được tổ chức ở khắp mọi nơi. ngày nay bạn có thể tải những bài hát karaoke trên mạng xuống và tập hát với màn hình máy tính của mình. Và thuận lợi hơn nữa cho những bồ thích hát karaoke, vào khoảng tháng 6-2004, tại Nhật sẽ cho ra mắt loại máy điện thoại di động có chức năng như một dàn karaoke mini và như chiếc microphone. Người sử dụng chỉ việc tải bài hát xuống, cắm chiếc điện thoại vào màn hình là đã có thể hát được.


Karaoke không chỉ đơn thuần là ý tưởng lỗi lạc và sáng tạo bỗng xuất hiện trong đầu một ai đó, sự phát minh ra và sự phổ biến của nó tại Nhật Bản đã gắn chặt chẽ, sâu sắc với nền văn hoá Nhật. Giá trị tập kết là một thuộc tính quan yếu nhất của văn hoá Nhật Bản. Sự xác nhận một bản ngã riêng biệt nào đấy chỉ đạt được chuẩn y việc tạo dựng, duy trì và củng cố mối quan hệ đó với những người khác. ý thức cộng đồng có Nguồn gốc sâu xa từ những hệ tư tưởng phương Đông cơ bản được hình thành trước hết bởi đạo Khổng và đạo Lão. Triết học hàng đầu của Nhật Bản Shintoism (Thần đạo) thực tại là phần mở mang của đạo Lão. Việc nhấn mạnh nhu cầu hoà hợp là sự quan hoài hàng đầu của tất các triết học này. Triết học này cho rằng nhân cách con người chỉ có thể có được trong mối quan hệ với những người khác của xã hội loài người. Các mối quan hệ từng lớp là một phần không thể tách biệt của đời sống con người. đích của việc giải trí trước hết không phải chỉ là giải trí cho riêng mình, mà là một cách để hoà mình một cách ham thích vào một nhóm và tác động qua lại lẫn nhau. Trên cơ sở đó, rất có lý để nói rằng karaoke không chỉ được ưa thích vì có vai trò giải trí mà nó còn có một chức năng tầng lớp quan trọng. Không ai đi hát karaoke một mình, và thế có tức thị bạn cần phải đi cùng bạn bè đến đó, hoặc là đồng nghiệp, thậm chí các thành viên trong gia đình.
tầng lớp Nhật Bản là một từng lớp đoàn thể, có tức thị cả tầng lớp hết dạ hướng tới đoàn thể. Một cá nhân chủ nghĩa được nhận biết trong đoàn thể. Giờ làm việc rất dài là chuẩn của con người đoàn thể. Cuộc sống con người xoay quanh đoàn thể, có chức năng như một phần của những cỗ máy sinh sản. Sự bó hẹp đối với cuộc sống cá nhân đã trở thành không nhất định nép. Hơn nữa, giá trị của sự hài hoà và tư tưởng nhóm hạn chế con người mô tả ý muốn và ý kiến vị kỉ của họ. Tuân thủ mệnh lệnh và thực hiện chuyên cần, chăm chỉ nhiệm vụ được giao là nguyên tắc sống. Sự ngăn chặn chủ nghĩa cá nhân là một lý do khác nữa cho việc phát triển của karaoke. Karaoke cho cá nhân một cơ hội trong số không nhiều thời cơ lắm để có thể mô tả mình trước những người khác với chính giọng của mình mà không bị gán cho là tự phụ tự đại hay tự coi mình là trọng tâm. Nó đáp ứng lòng mong muốn hay sự thôi thúc thầm được xác nhận như một cá nhân. Đối với những người sống trong từng lớp đầy stress, thì không có một hình thức giải trí nào khác có thể làm họ khỏe khoắn, tỉnh ngủ và bớt bao tay như karaoke.
Karaoke là một phần thiết yếu trong văn hoá Nhật. Với sự khuyến khích thích đáng, con trẻ và người lớn có thể học để có được sự tự tín khi đứng trước đám đông. Chúng ta đã từng thấy không ít học sinh phải lúng túng khi trả bài trước cả lớp. Hẳn là mọi việc sẽ rất khác phải trước đó họ tham gia hát karaoke, hát trước tất cả các bạn cùng lớp và bố của mình. Chỉ cần một sự khuyến khích nhất quyết như tràng vỗ tay hay một cách vỗ vai khi nói "bạn hát rất cừ", đã có thể giúp các học sinh đó dần dần có được sự tự tin cấp thiết để có thể nói trước đám đông. Một số công ty Nhật còn cho vào nội quy bắt buộc việc dự hát karaoke. cả thảy các nhân viên của công ty, gồm cả thủ trưởng, giám đốc sẽ ngồi cùng nhau và xem từng người lần lượt trình diễn. Đây là một hình thức giải trí vui vẻ sau những giờ lao động mệt mỏi, căng thẳng, giúp làm tăng thêm sự tự tín của mỗi viên chức, là dịp giao lưu với đồng nghiệp, thắt chặt tình kết đoàn gắn bó. ở Nhật, karaoke được nhiều người mến mộ đến nỗi mà một số nhà còn có máy hát karaoke trong từng phòng, từ phòng khách đến phòng ngủ. Thậm chí taxi cũng được trang bị dàn karaoke để khách có thể hát trong khi lái xe đưa họ đến điểm cần thiết.
Karaoke còn rất có lợi cho sức khoẻ. Một số thầy thuốc chuyên khoa trị liệu bằng âm nhạc đã dùng liệu pháp karaoke với các công dân trung niên và trẻ em có nhu cầu đặc biệt bởi họ có thể dùng những bài hát thân thuộc như biện pháp trị liệu cho bệnh nhân của mình. Đây là một cách hữu hiệu để giữ cho trí óc người già được sáng láng, và karaoke đã giúp họ bằng cách khi âm nhạc nổi lên, người già có thể nhận diện được các từ xuất hiện trên màn hình. Trẻ nhỏ thì có thể nhìn thấy chữ viết của những bài hát mẫu giáo yêu thích của chúng và đối với chúng, được học cách đọc những bài hát đó chắc chắn sẽ rất xăm. Liệu pháp karaoke còn được dùng với những bệnh nhân hen. ban sơ, bệnh nhân hát karaoke nhưng chẳng thể chấm dứt bài hát bởi anh ta đã hết hơi và buộc phải dừng lại. Sau một đôi tháng, anh ta đã có thể hát trọn một bài hát. Một trường hợp khác phải thở oxy luôn và rất khó ngủ về đêm. Sau khi sử dụng biện pháp trị liệu bằng karaoke hai tháng, bệnh nhân này đã không còn phải dùng oxy liên tục và ngủ tốt hơn rất nhiều. vì sao lại có được những kết quả đó? Có lẽ vị phần nhiều mọi người chỉ sử dụng phần trên của phổi để thở trong khi ta nên dùng cả phổi để thở. Nếu muốn hát hay, ta cần phải hít một hơi sâu, dùng cơ hoành để lấy thêm không khí vào phổi. Làm nhiều sẽ thành lề thói, và do đó dung tích của phổi sẽ lớn hơn và nhiều oxy sẽ có khả năng chuyển vào cơ thể ta hơn. Hãy cầm hát một bài hát nhanh, nó có thể cho ta kết quả như tập thể dục nhịp độ vậy.

Người Nhật không chỉ hát những bài hát tiếng Nhật, mà cả những bài hát phương Tây. Họ học những bài hát tiếng nước ngoài: Anh, Pháp, Trung Quốc, Hàn Quốc... Những bài hát phổ biến là những bài do Elvis và The Beatles hát mặc dầu những bài hát hiện đại lúc nào cũng sẵn sàng. Đây không chỉ thuần tuý là hát những bài khác đi, mà chính là họ đã tập sự những kĩ năng tiếng Anh mặc dù không nhận ra cái điều đó. Và vấn đề cũng na ná với những người nước ngoài học tiếng Nhật, họ có thể hát những bài hát karaoke bằng tiếng Nhật. Đây là một cách rất tốt để làm sửng sốt các bạn Nhật, củng cố tình kết đoàn giữa các dân tộc, tăng cường giao lưu văn hóa toàn cầu, giúp các dân tộc hiểu nhau hơn, gần gụi nhau hơn.

Sự nổi lên của karaoke, bắt đầu tại Nhật Bản hơn 30 năm qua và gắn chặt với nền văn hoá dân tộc độc đáo, đã phổ quát rộng rãi sang nước ngoài và được hưởng ứng nồng hậu, rộng rãi không chỉ tại Hàn Quốc, Trung Quốc, Đông Nam á, mà còn khắp châu Âu, châu Mỹ bởi không chỉ lớp trẻ.

Những người khách từ các nước khác nhau, ấn tượng với những gì nhìn thấy tại Nhật, vay mượn ý tưởng khi họ trở về nước và làn sóng mới lại bắt đầu. Thậm chí họ đã đổi tên nó nhiều lần cho hợp với những nhu cầu và tiếng nói của họ, nhưng nó vẫn được biết đến dưới cái tên chung karaoke. ngày nay, chúng ta có thể thấy karaoke ở khắp mọi nơi, trong các quán bar, nhà hàng, câu lạc bộ, và ngay cả tại các cuộc hội chợ và vào các ngày lễ trên toàn thế giới.

Có những nguyên tố rõ ràng đã đóng góp không những cho thành công ngày nay của karaoke mà còn cho những triển vọng trong mai sau.

Thứ nhất, không có gì thuyết phục hơn là niềm vui không cưỡng lại được do karaoke mang lại. Con bồ âm nhạc. Con người thích được hát. Và karaoke có thể giúp người ta hát hay hơn khả năng thực. Sự tự hoàn thiện là bản chất con người nói chung dù có là nền văn hoá nào cũng thế.

Thứ hai, sự tương tác về văn hoá thẳng băng giữa Tây và Đông làm cho thế giới trở nên đa dạng hơn bao giờ hết. Con người, dù ở bất cứ đâu, cũng luôn sẵn sàng đón nhận bất cứ cái gì được gọi là cái hay, cái tốt. mặc dầu vấn đề thế giới có đang trở thành đồng nhất hay không vẫn còn đang được tranh biện, nhưng sự giao hội thì là vấn đề vững chắc.

Thứ ba, tính phổ quát của karaoke cũng do sự đơn giản và linh hoạt trong việc sử dụng khi thao tác. Để hát karaoke bạn chỉ cần có một chiếc TV, đầu băng (đĩa) và băng (đĩa). Đơn giản hơn, ngày nay bạn có thể hát karaoke trên máy vi tính của mình. Điều này được áp dụng với tuốt các chủng loại âm nhạc, từ nhạc Pop mới nhất hay nhạc trữ tình, đến nhạc Rock cổ điển, những bài hát dành cho trẻ con, những bài thánh ca, dân ca...

Thứ tư, khi karaoke biểu hiện lời bài hát và cảnh trên màn hình, nó đồng thời cũng đang tụ hội sự để ý của các nước muốn cải thiện tỷ lệ mù chữ, như giáo cụ hữu hiệu. Đây có thể là một tác động gây bất ngờ của karaoke.

Karaoke đã đáp ứng nhu cầu được chú ý và được tả. Nó đã trở thành phổ cập trong nhu cầu giao lưu giữa một cá nhân với một nhóm người, giữa một nhóm với một nhóm và giữa những con người thuộc các nền văn hoá khác nhau.

Thuật ngữ karaoke, dù có được phát âm khác nhau trong các nền văn hoá khác nhau, đã được dìm là tiếng nói chung. Nó không chỉ được ghi vào tự vị của người Nhật, mà còn có trong tự điển tiếng Anh Oxford, một tự điển uy tín nhất của nước Anh và của thế giới.

0 comments:

Post a Comment